Cách lấy Dụng thần trong Bát tự Tòng cách, phân tích điều kiện của Bát tự Tòng cách.

Điều kiện của Bát tự Tòng cách:

  1. Bát tự lấy Nhật chủ (ngày sinh, đại diện bản thân) làm “ta”.
    Tỷ Kiếp (nguyên thần đồng loại, cùng ngũ hành với Nhật chủ) và Ấn (chính ấn, thiên ấn – đại diện che chở, sinh trợ) thuộc về “phe ta”, còn Thực Thương (thực thần, thương quan – tiết khí, khắc chế), Tài (tài tinh – khắc Nhật chủ) và Quan (quan sát – khắc chế, quản thúc) thuộc về “phe khác”. Nếu trong toàn bộ lá số ngoài Nhật chủ không có phe ta, chỉ toàn phe khác, Nhật chủ hoàn toàn vô lực, thì nhất định phải bỏ mệnh để theo phe khác.

  2. Nhất định không có Ấn và Tỷ Kiếp, Nhật chủ cô thế mới có thể luận Tòng (trừ Tòng Nhi – trường hợp đặc biệt có thể thấy Tỷ Kiếp).

  3. Ngũ hành được theo không được bị khắc.
    Tòng Quan thì không được gặp Thực Thương, Tòng Tài thì không được gặp Tỷ Kiếp, Tòng Nhi thì không được gặp Ấn.

  4. Nguyệt lệnh (chi tháng – khí chính trong tháng sinh) nhất định phải là ngũ hành mà mình theo.
    Ví dụ: muốn Tòng Tài thì Nguyệt lệnh phải là Tài, muốn Tòng Quan thì Nguyệt lệnh phải là Quan, muốn Tòng Nhi thì Nguyệt lệnh phải là Thực Thương. Đồng thời Nguyệt lệnh phải lộ ra Thiên can (trụ tháng hoặc các trụ khác có can đồng loại xuất hiện) mới có thể dùng được, nếu không thì không thể luận là Tòng.

Cách lấy Dụng thần trong Bát tự Tòng cách:

Phàm Bát tự Tòng cách thì Nhật can (ngày sinh, đại diện bản thân) đều ở trạng thái cực yếu, vì lực lượng quá yếu, không thể tự lập mà buộc phải nương theo ngũ hành vượng mạnh trong mệnh cục. Bát tự Tòng cách đơn giản chia thành: Tòng Quan Sát cách (Quan Sát: sao quản thúc/khắc chế), Tòng Tài cách (Tài: sao tài lộc/khắc Nhật chủ), Tòng Ấn cách (Ấn: sao che chở/sinh trợ), Tòng Nhi cách (Nhi: tức Thực Thương – sao tiết khí/sinh xuất). Sau đây là phương pháp lấy Dụng thần của từng loại:

  1. Bát tự Tòng cách chi Tòng Quan (Sát) cách:
    Thông thường, Dụng thần là Quan Sát, Tài tinh. Kỵ Tỷ Kiếp, Ấn, Thực Thương.

  2. Bát tự Tòng cách chi Tòng Tài cách:
    Thông thường, Dụng thần là Tài tinh, Thực Thương. Quan Sát dùng thận trọng, kỵ Tỷ Kiếp, Ấn.

  3. Bát tự Tòng cách chi Tòng Ấn cách:
    Thông thường, Dụng thần là Ấn tinh, Quan Sát. Kỵ Tỷ Kiếp, Tài tinh, Thực Thương.

  4. Bát tự Tòng cách chi Tòng Nhi cách (tức Tòng Thực Thương cách):
    Thông thường, Dụng thần là Thực Thương, Tài tinh dùng thận trọng. Kỵ Tỷ Kiếp, Ấn, Quan Sát.

Luận đoán Tòng cách hay không Tòng cách:

Trong sự phối hợp chữ nghĩa của Bát tự, không dễ dàng phán đoán ra, thực tế cũng không có số liệu hay tiêu chuẩn cố định nào để tham khảo. Xem lại các ví dụ luận mệnh của tiền nhân, có trường hợp tưởng như nhất định phải Tòng nhưng luận ra lại không Tòng; cũng có trường hợp tưởng như sẽ không Tòng nhưng luận trải nghiệm thực tế lại đúng là nên Tòng cách. Nguyên nhân là vì “khí” có sự tiến thoái, lại thêm yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa đều có ảnh hưởng làm thay đổi sự hình thành của một Bát tự.

  1. Ảnh hưởng khí hậu khác nhau
    Ví dụ đài khí tượng dự báo bão ngày 12 cập bờ, nhưng nhiều khi đến sớm, đến muộn hoặc đổi hướng giữa chừng – đó cũng là khí có tiến thoái.

  2. Ngũ hành theo vùng miền khác nhau
    Một Bát tự sinh ở vùng Đông Bắc lạnh giá và sinh ở miền Nam nóng bức, tự nhiên đã tạo ra sự chênh lệch về hàn – nhiệt trong lá số.

  3. Ngũ hành Thủy – Hỏa hỷ kỵ khác nhau
    Sinh ra trên thuyền giữa sông hay bên cạnh lò lửa, đều ảnh hưởng đến việc lá số hỷ Hỏa hay kỵ Thủy.

(1) Vì vậy, trong việc phán đoán “Tòng hay không Tòng” thì sai biệt chỉ trong một đường ranh nhỏ, cực kỳ khó xác định.
Cách tốt nhất là tự đối chiếu với trải nghiệm của chính mình, vì chỉ có bản thân mới thật sự hiểu rõ quá khứ; dùng quá khứ để nghiệm chứng thì sẽ dễ dàng biết mệnh của mình là Tòng hay không Tòng.

(2) Một Bát tự khi luận là Tòng cách hoặc vẫn là Chính cách (cách cục chính thống) thì việc lấy Hỷ thần (ngũ hành có lợi) và Kỵ thần (ngũ hành bất lợi) nhiều khi hoàn toàn trái ngược nhau. Do đó hãy đem trải nghiệm thực tế quá khứ mà đối chiếu, sẽ rõ ràng, không cần hỏi ai.

(3) Nếu đáng lẽ là Chính cách, thân nhược hỷ Mộc, Hỏa, thì hai mươi năm đầu vận Ất Mão, Giáp Dần (Mộc vận) trợ thân, là vận tốt, cơ bản thuận lợi, thân thể, học hành đều bình thường. Nhưng sau hai mươi tuổi vào vận Bắc phương Thủy, Thủy khắc Bính Hỏa yếu, tất có bất lợi; so với hai mươi năm đầu, cảm thấy nhiều phiền muộn, bệnh tật, bất thuận – đây chính là không phải Tòng cách, mà vẫn là Chính cách.

(4) Ngược lại, nếu hai mươi năm đầu nhiều bất thuận như gia sự lục đục, hao tổn, thân nhược bệnh nhiều, học hành trắc trở…, nhưng sau hai mươi tuổi vào vận Quý Sửu (Bắc phương Thủy), lại thấy bình ổn, chuyển tốt hơn – thì đây là nhập Tòng thế cách, tức Tòng nhược cách.

(5) Thực tế có trường hợp kiểm chứng: thuở nhỏ học hành, sức khỏe đều tốt, nhưng sau hai mươi tuổi gặp vận Quý Thủy, lưu niên Bính Thìn, đại vận Quý Thủy, lưu niên Tý Thìn hợp thành Thủy cục, thì mắc bệnh mà mất. Chứng tỏ không phải Tòng cách, mà phải luận theo Chính cách. Vì ngũ hành thiếu Mộc, địa chi không có rễ Hỏa, Nhật chủ Bính Hỏa hư phù, Bát tự rất yếu, tầng thứ không cao, vừa nhập vận Thủy đã không chịu nổi thử thách, Bính Hỏa nhanh chóng tắt. Lại thêm về sau nhiều năm Kim Thủy nghịch vận, không thấy khởi sắc, hoa vừa nở đã tàn.

Tòng cách có quy củ rất nghiêm ngặt, Tứ trụ không thể tùy tiện luận Tòng, nhất định phải đủ điều kiện chặt chẽ mới có thể xem là Tòng cách. Vì vậy khi phân tích Bát tự tuyệt đối không được nói bừa, phải để thầy chuyên nghiệp luận đoán.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *