Trong Tứ trụ, khi Thiên Ấn nắm quyền, hoặc Thiên Ấn kết cục thành phương, thì kỵ nhất là Thiên Ấn và Thực Thần cùng xuất hiện. Nếu gặp phải tình huống này, thường chủ về có khởi đầu mà không có kết quả, nam mệnh bất lợi cho vợ, nữ mệnh bất lợi cho con.
Tiếp theo, xin giới thiệu đặc điểm của Thiên Ấn và điều kiện hình thành cách cục. Trong mệnh lý Bát Tự, Thiên Ấn tức là “Kiêu Thần”, khác với Chính Ấn. Thiên Ấn và Nhật chủ có quan hệ sinh phù nhưng cùng âm dương đồng tính.
Sách cổ có chép: “Thiên Ấn được thời nắm quyền, chủ về người nhiều tâm cơ, giỏi biến hóa. Nếu gặp thân vượng, lại thấy tài tinh thì của cải sung túc, phúc lộc dồi dào. Nếu gặp hình sát thì yểu mệnh, nghèo hèn.”
Đặc điểm và điều kiện thành cách cục của Thiên Ấn trong Bát Tự
1. Đặc điểm của Thiên Ấn
Người có mệnh thành Thiên Ấn thường thông minh, có năng lực, đa tài đa nghệ, lòng tự trọng cao, cả đời tiền tài sung túc. Nếu Thiên Ấn quá vượng mà trở thành kỵ thần thì chủ về phúc mỏng mệnh bạc.
Nếu trong mệnh có ba, hoặc trên ba “Kiêu Thần” (tên khác của Thiên Ấn), thì thân thể suy yếu, nhân duyên cô độc, hay do dự, thiếu quyết đoán, dễ gặp tai ương, hao tài.
Bất kể nam hay nữ, nếu thân mạnh mà Thiên Ấn nhiều, hoặc trụ giờ lại thấy thêm Thiên Ấn, thì con trai khó nuôi, thậm chí không có con trai, gọi là “mai nhi pha” (chôn con ở sườn đồi). Khi vận hạn trùng phùng, hoặc sinh bệnh, hoặc hao tài.
2. Tính cách của người mang mệnh Thiên Ấn
Thường hay thay đổi, tính khí kỳ lạ, cô độc, cố chấp. Đặc biệt, nếu Thiên Ấn tọa tại nguyệt lệnh, thì tính tình hướng nội, không cởi mở, đa nghi, khó tin tưởng người khác, ít bạn bè, dù có bạn cũng không thật sự thân thiết. Nếu Thiên Ấn gặp Thiên Tài thì tính cách trở nên cởi mở, có khả năng tự lập, khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng, thích hợp phát triển nơi đất khách.
3. Hỷ – kỵ của Thiên Ấn
Thiên Ấn gặp Tài tinh thì biến hung thành cát, thân vượng thì đại phú đại quý; khi nhập đất Tài thì có điềm thăng quan phát tài; Thiên Ấn gặp Thương Quan thì cả đời ẩm thực sung túc; nhưng với nữ mệnh lại bất lợi cho chồng con.
Thiên Ấn gặp Thực Thần mà không thấy Tài tinh thì kinh tế kém, thường ở cảnh nghèo khó, hay bị trưởng bối khống chế, không được tự do, việc gì cũng dở dang, thành rồi lại bại; gặp Quan Sát thì cả đời nhiều lần thành – bại xen kẽ.
4. Quan hệ giữa sự vượng – suy của Thiên Ấn với ngày sinh
Nếu Nhật chủ vượng mà gặp Thiên Ấn, lại thêm Tài tinh (đặc biệt là Thiên Tài) làm hỷ thần, thì người đó tất có phúc. Ngược lại, nếu Thiên Ấn gặp ngày suy, lại thêm vào đất chết – mộ – tuyệt, thì càng kỵ gặp Tài tinh, chủ về một đời nhiều tai họa.
5. Nghề nghiệp thích hợp với người mang Thiên Ấn
Nếu Thiên Ấn là hỷ dụng, hoặc dù là kỵ thần nhưng có sự chế hóa, thì thích hợp làm những nghề như: nghiên cứu dịch học, thầy thuốc, kỳ thủ, tham mưu, kế toán, thư ký; hoặc trở thành nhà tâm lý học, chuyên gia thẩm mỹ, chiêm tinh gia, tu sĩ, cư sĩ…
Dù là hỷ hay kỵ, nhìn chung đều thích hợp với những ngành nghề đặc thù, ít người làm, hoặc nghề nghiệp mang tính độc môn. Đặc biệt, người có Thiên Ấn là kỵ thần, nếu tìm được một bí quyết riêng để phát huy sở trường thì ít nhất cũng có thể sống ổn định.
6. Điều kiện thành cách cục Thiên Ấn
(1) Nguyệt lệnh có bản khí lộ ra thiên can, thì lấy bản khí của nguyệt lệnh để lập cách cục.
Ví dụ: Nhật chủ là “Nhâm”, nguyệt lệnh là “Thân”, trong đó tàng bản khí “Canh” là Thiên Ấn của Nhật chủ, nếu thiên can tháng lại lộ ra “Canh”, tức là nguyệt lệnh bản khí lộ can, thành “Kiêu Thần cách”.
(2) Nếu bản khí trong Bát Tự không lộ, nhưng trung khí hoặc dư khí của nguyệt lệnh lộ ra thiên can.
Trong trường hợp này, nếu bản khí không lộ mà trung khí hoặc dư khí lộ thì lấy khí lộ ra để lập cách; nếu cả hai đều lộ thì chọn bên mạnh hơn để định cách.
(3) Nếu nguyệt lệnh không lộ, nhưng trong cục có Thiên Ấn hội hợp thành cục.
Tức là nguyệt lệnh có Thiên Ấn nhưng không lộ, địa chi lại có Thiên Ấn hội hợp thành cục, hoặc thành phương, hoặc hội ngầm; hoặc trong tháng, ngày, giờ nhiều lần xuất hiện Thiên Ấn, thì cũng có thể coi là cách cục Thiên Ấn.
(4) Nếu nguyệt lệnh không tàng, nhưng trong nguyên cục Thiên Ấn lộ ra thiên can.
Trường hợp này, về nguyên tắc không lấy làm Thiên Ấn cách; nhưng nếu địa chi có nhiều Thiên Ấn vượng, hoặc hợp cục, hội cục, và Thiên Ấn ở gần Nhật chủ, thì vẫn có thể coi là cách cục Thiên Ấn.