Trong Bát tự, chúng ta thường nghe nhiều thuật ngữ như: Thực Thần chế Sát, Ấn Kiếp đoạt Thực, Thương Quan kiến Quan… Tục ngữ có câu: “Thương Quan thương tận, nhất phẩm quý mệnh, phú quý khó nói hết”. Nhưng đa phần chúng ta không rõ ý nghĩa và điều kiện thành lập. Vậy trong Bát tự làm sao xem Thương Quan kiến Quan, và làm sao biết Thương Quan có thương tận hay chưa?
Cách xem Thương Quan có “thương tận” trong Bát tự
1. Tứ trụ có Thương Quan lộ trên thiên can
-
Trên thiên can, địa chi đều không thấy một chút Quan tinh nào.
2. Địa chi tàng Quan tinh
-
Nếu các thiên can khác có Quan tinh, nhưng Quan lại bị thiên can liền kề hợp hóa thành Thương Quan, mà trong nguyên cục có Thương Quan lộ ra → thì được tính.
3. Thương Quan quá vượng, Quan tinh quá suy nhược
-
Quan tinh không có nguồn (không có Tài sinh Quan), bị Thương Quan khắc đến tuyệt → gọi là Thương Quan thương tận.
-
Điều kiện: phải có Quan lộ, Thương lộ, toàn cục thanh, không tạp. Quan từ thế mà thuận theo Thương Quan. Dù Quan tinh có xuất hiện, nếu không có Tài sinh Quan, Quan trở thành “hư透”, cũng gọi là Thương Quan thương tận.
Ngược lại, nếu có Chính Quan lộ trên thiên can mà bị Thương khắc → gọi là “thương chưa tận”, mệnh cục hỗn tạp không thanh, chủ hung, không được tính là Thương Quan thương tận.
Thương Quan thương tận thực sự
1. Mộc Hỏa Thương Quan và Kim Thủy Thương Quan
-
Hai loại Thương Quan này được dùng để điều hòa hàn – nhiệt trong mệnh cục.
-
Bát tự quá lạnh → cần Hỏa để sưởi; quá nóng → cần Thủy để mát, từ đó cân bằng.
-
Trường hợp này chính cần thấy Quan tinh, thì mới thành cách cục đẹp.
2. Trong sự chuyển hóa cát – hung, cách cục trở nên cát lợi
-
Với các Thương Quan khác: nếu thân cường, Quan tinh yếu, nhưng Tài tinh hữu lực, thì cần Thương Quan sinh Tài, Tài sinh Quan.
-
Thương Quan trở thành gốc rễ để sinh Quan → biến hung thành cát.
-
Điểm mấu chốt là chữ Tài: lấy Thương hóa Tài, luận theo Thương – Tài, khiến cục diện trong sáng.
3. Trong tứ trụ Thương Quan đã thương tận, gặp Quan tinh ở vận hạn cũng cát lợi
-
Câu “Thương Quan kiến Quan, họa sự bách đoan” chỉ đúng khi nguyên cục Thương Quan chưa tận, lại gặp vận hạn Quan tinh, thân yếu → dễ sinh tai họa.
-
Nếu nguyên cục đã thương tận → ngược lại, gặp Quan trong vận hạn cũng thành cát.
Đặc trưng của Bát tự Thương Quan thương tận
-
Phần lớn là mệnh cách của người thành công.
-
Hễ đã thương tận thì dù loại Thương Quan nào cũng thành quý mệnh.
-
Ngược lại, có Thương Quan mà chưa thương tận → chủ hung họa, dễ tranh đấu, kiện tụng, thị phi.
Ví dụ: Mệnh Hoàng Thái Cực (Hoàng đế nhà Hậu Kim – Thanh Thái Tổ)
Mệnh cục:
乾造:
壬 辛 辛 丙
辰 亥 亥 申
-
Thời can Bính Hỏa là Quan tinh, thuộc “ở trong nhà” (trụ nhật, trụ thời).
-
Bính – Tân hợp hóa Thủy → Quan tinh biến thành Thương Quan.
-
Ngoài nhà (trụ niên, trụ nguyệt) có Tân Hợi là tỷ kiên, cũng tranh hợp Quan này.
-
Nhưng vì Quan ở trong nhà (gần Nhật chủ), nên chắc chắn Nhật chủ chiếm được.
-
Kết quả: Quan bị hợp hóa toàn bộ thành Thương Quan → gọi là Thương Quan thương tận.
Ý nghĩa:
-
Thương Quan vượng tất chế Quan.
-
Nhật chủ ngồi trên Thương Quan, tức Quan trong thiên hạ đều bị Nhật chủ chế hết → mệnh đế vương.