Ở đây chúng ta xem ý nghĩa và điều kiện hình thành của “tam hội cục” trong Địa chi. Trong mười hai Địa chi có nhiều tổ hợp như tam hợp, lục hợp, phá, hại, hội hợp… đều mang ý nghĩa đặc biệt. Vậy nên chúng ta sẽ bàn về “tam hội cục” của Địa chi, trong Bát tự thì “tam hội” có nghĩa là gì?
Trong Bát tự, Địa chi Tam hội là gì?
Tam hội cục trong Bát tự là chỉ ba địa chi hội hợp thành một phương chi khí. Gồm có: Dần, Mão, Thìn hội thành phương Đông Mộc; Tỵ, Ngọ, Mùi hội thành phương Nam Hỏa; Thân, Dậu, Tuất hội thành phương Tây Kim; Hợi, Tý, Sửu hội thành phương Bắc Thủy. Chúng là đại diện cho bốn phương, cũng là sự phân định của bốn mùa. Trong mỗi mùa, bốn chi Thìn, Mùi, Tuất, Sửu sẽ làm nhiệm vụ thu lại, tức là bốn “lập”.
Trước mười tám ngày của xuân, hạ, thu, đông mới có khí Thổ, mười hai ngày sau là giai đoạn thu lại phần cuối của xuân, hạ, thu, đông, tức là khí còn sót lại. Tam hội phương cục chính là sự tập trung sức mạnh của một phương, hoặc một mùa, lực này lớn hơn tất cả Thiên can ngũ hợp, Địa chi lục hợp và Địa chi Tam hợp, nên được coi là đứng đầu trong các sự hợp.
Địa chi Tam hội cục vừa có sự thay đổi vật lý, lại vừa có sự biến hóa hóa học, thuộc phạm trù quy luật biến chất. Lấy Dần, Mão, Thìn hội thành phương Đông Mộc làm ví dụ: Dần, Mão vốn là Mộc, hai chi này hợp lại thì sức Mộc tăng mạnh, đó là biến đổi về lượng; Thìn thuộc Thổ, khi cùng hội với Dần, Mão thì Thìn Thổ biến thành Mộc, đó là biến đổi về chất. Tam hội cục vừa có biến đổi về lượng, vừa có biến đổi về chất.
Nguyên lý của Địa chi Tam hội cục là căn cứ khách quan để nghiên cứu và phân tích vận mệnh cát hung họa phúc của con người, cũng như sự biến hóa sinh lý, bệnh lý của cơ thể.
Điều kiện và tiêu chuẩn để hình thành Địa chi Tam hội cục
1. Điều kiện Tam hội cục hợp hóa thành công giống với Tam hợp cục
Chỉ cần trong mệnh, vận, tuổi có đủ ba chi gặp nhau, và có cùng một ngũ hành lộ ra thiên can thì được coi là hợp hóa thành công. Nếu có thêm một chi nữa thì được xem là tăng thêm sức mạnh cho Tam hội cục.
2. Tam hội cục không có khái niệm nửa Tam hội cục, và sức mạnh lớn hơn Tam hợp cục
Trong mệnh, vận, tuổi, nếu xuất hiện đồng thời bất kỳ hợp cục nào với Tam hội cục thì đều phải nhường cho Tam hội cục. Trong các hợp cục, hội cục của địa chi, tất cả đều phải nhường cho ba hình Sửu–Mùi–Tuất và bốn kho Thìn–Tuất–Sửu–Mùi khi xung đủ. Bốn kho Thổ này trong mệnh, vận, tuổi cũng phải có thiên can lộ Thổ thì mới được coi là thành công.
Trong Bát tự, bất kỳ Lục hợp, Bán Tam hợp, Tam hợp, Tam hội cục nào đồng thời xuất hiện, nếu cùng hợp thành một khí thì đều có thể cùng tồn tại.
3. Nếu trong mệnh, vận, tuổi có Lục hợp, Bán Tam hợp hoặc Tam hợp cục xuất hiện cùng với Tự hình
Thì phải lấy Tự hình làm chính. Nếu Tự hình và Hợp cục cùng là một khí thì có thể đồng thời tồn tại. Tam hội cục và ba chi Tự hình, hoặc Sửu–Mùi–Tuất tam hình đồng thời xuất hiện thì phải nhường cho ba chi Tự hình. Nếu Sửu–Mùi–Tuất tam hình vừa hình vừa hợp cùng một khí thì cũng có thể đồng thời tồn tại.
Trong mệnh cục, nếu xuất hiện Tam hội cục thì thường sẽ không có tình trạng hóa thần bị chế ngự. Nếu có hóa thần bị chế ngự, thì nhất định là do mệnh, vận, tuổi hình thành hai loại ngũ hành hội cục đối kháng nhau.
Khi mệnh, vận, tuổi xuất hiện hai hội cục đối kháng, thì cách luận cát hung có ba điểm:
(1) Hai loại ngũ hành đối kháng không luận theo ngũ hành khắc chế lẫn nhau, mà phải luận theo phương cục, không xét đến tiểu vận.
(2) Hai phương cục không dựa vào tiết lệnh để định thịnh suy, mà lấy sức mạnh lớn nhỏ để phân thắng bại, bên nào có sinh trợ thì bên đó thắng.
(3) Nếu bên mạnh khống chế được bên yếu, thì ngũ hành thuộc bên yếu trong mệnh cục sẽ bị khắc chế, từ đó dễ phát sinh tai họa.
Ngũ hành suy vượng và hỉ kỵ của Địa chi Tam hội cục
1. Dần – Mão – Thìn Tam hội Mộc cục
Trong Tứ trụ, Đại vận, Lưu niên, chỉ cần có đủ ba chi Dần, Mão, Thìn thì hình thành Tam hội Mộc cục. Vào các tháng Dần, Mão, Thìn, Mùi, Hợi, Tý thì Tam hội Mộc cục ở thế vượng (gọi là Tam hội cục vượng); vào các tháng Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Sửu thì Tam hội Mộc cục suy (gọi là Tam hội cục suy).
Tam hội Mộc cục cho thấy sức mạnh Mộc của Dần, Mão tăng lên, Thìn Thổ không còn giữ nguyên tính chất mà biến thành Mộc. Nếu Nhật chủ hỉ Mộc, tức là vận thế tốt, sức khỏe ổn định; nếu Nhật chủ kỵ Mộc, tức là vận thế kém, dễ mắc bệnh về gan, mật, tỳ vị, thận.
2. Tỵ – Ngọ – Mùi Tam hội Hỏa cục
Trong Tứ trụ, Đại vận, Lưu niên, chỉ cần có đủ ba chi Tỵ, Ngọ, Mùi thì hình thành Tam hội Hỏa cục. Vào các tháng Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất thì Tam hội Hỏa cục ở thế vượng; vào các tháng Thìn, Thân, Dậu, Hợi, Tý, Sửu thì Tam hội Hỏa cục suy.
Tam hội Hỏa cục cho thấy sức mạnh Hỏa của Tỵ, Ngọ tăng lên, Mùi Thổ biến đổi thành Hỏa. Nếu Nhật chủ hỉ Hỏa, tức là vận thế tốt, sức khỏe ổn định; nếu Nhật chủ kỵ Hỏa, tức là vận thế kém, dễ mắc bệnh về gan mật, phổi, tỳ vị, thận.
3. Thân – Dậu – Tuất Tam hội Kim cục
Trong Tứ trụ, Đại vận, Lưu niên, chỉ cần có đủ ba chi Thân, Dậu, Tuất thì hình thành Tam hội Kim cục. Vào các tháng Thìn, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Sửu thì Tam hội Kim cục ở thế vượng; vào các tháng Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Hợi, Tý thì Tam hội Kim cục suy.
Tam hội Kim cục cho thấy sức mạnh Kim của Thân, Dậu tăng lên, Tuất Thổ biến đổi thành Kim. Nếu Nhật chủ hỉ Kim, tức là vận thế tốt, sức khỏe ổn định; nếu Nhật chủ kỵ Kim, tức là vận thế kém, dễ mắc bệnh về gan mật, tỳ vị, phổi.
4. Hợi – Tý – Sửu Tam hội Thủy cục
Trong Tứ trụ, Đại vận, Lưu niên, chỉ cần có đủ ba chi Hợi, Tý, Sửu thì hình thành Tam hội Thủy cục. Vào các tháng Thìn, Thân, Dậu, Hợi, Tý, Sửu thì Tam hội Thủy cục ở thế vượng; vào các tháng Dần, Mão, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất thì Tam hội Thủy cục suy.
Tam hội Thủy cục cho thấy sức mạnh Thủy của Hợi, Tý tăng lên, Sửu Thổ không còn giữ nguyên tính chất mà biến đổi thành Thủy. Nếu Nhật chủ hỉ Thủy, tức là vận thế tốt, sức khỏe ổn định; nếu Nhật chủ kỵ Thủy, tức là vận thế kém, dễ gặp vấn đề về tim, gan mật, tỳ vị.
Địa chi Tam hội cục có thể hóa giải Lục xung của địa chi
Ví dụ: Năm chi Hợi, ngày chi Tý, giờ chi Sửu thì hình thành Tam hội Thủy cục. Nếu Đại vận là Mùi, Lưu niên là Tỵ, trong trường hợp này, Lưu niên Mùi không thể xung giờ chi Sửu, Đại vận Tỵ không thể xung năm chi Hợi, vẫn giữ nguyên Tam hội Thủy cục.
Ví dụ khác: Năm chi Ngọ, ngày chi Sửu, giờ chi Mùi, Đại vận là Tỵ, Lưu niên là Sửu, thì năm chi Ngọ, giờ chi Mùi, Đại vận Tỵ tạo thành Tam hội Hỏa cục, từ đó hóa giải xung Sửu–Mùi giữa ngày chi và giờ chi, đồng thời hóa giải xung giữa ngày chi Sửu, giờ chi Mùi và Lưu niên Sửu.
Tam hội cục có thể mang cát hoặc hung:
-
Nếu chi của Dụng thần hoặc Kị thần bị Tam hội bởi Ngũ hành xung khắc, thì Dụng chủ gặp hung.
-
Nếu chi của Kị thần hoặc Ác thần bị Tam hội bởi Ngũ hành hợp với Dụng thần hoặc Kị thần, thì Dụng chủ gặp cát.
-
Dụng thần, Kị thần được Tam hội ở thế vượng thì cát; suy thì hung.
-
Kị thần, Ác thần được Tam hội ở thế vượng thì hung; suy thì cát.

